Theo thông cáo báo chí mới đây, tổ chức đánh giá tín dụng Fitch Ratings đã điều chỉnh Triển vọng về Xếp hạng Trái phiếu Dài hạn bằng Ngoại tệ và Nội tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “Ổn định” lên “Tích cực”, và giữ nguyên xếp hạng ở mức BB-. Xếp hạng các trái phiếu nội tệ và ngoại tệ không đảm bảo của Việt Nam cũng được giữ ở mức BB-. Trần Nợ công được giữ ở mức BB- và xếp hạng trái phiếu Ngắn hạn bằng Ngoại tệ và Nội tệ giữ ở mức B.
Theo Fitch, xếp hạng của Việt Nam phản ánh tăng trưởng và triển vọng phát triển mạnh, thặng dư tài khoản vãng lai liên tục, quản lý tốt việc trả nợ và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) liên tục gia tăng.
Xếp hạng này cũng phản ánh tỷ lệ nợ công cao, dự trữ ngoại hối đệm thấp, rủi ro tầm vĩ mô và trong ngành ngân hàng; cộng thêm một số chỉ số cấu trúc yếu hơn so với các nước cùng điều kiện khác, bao gồm thu nhập bình quân đầu người và các tiêu chuẩn phát triển con người.
Theo Fitch, việc nâng triển vọng của Việt Nam lên “Tích cực” phản ánh các diễn biến chính sau đây:
Đầu tiên, Việt Nam đang duy trì chính sách tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, bao gồm tăng cường sự linh hoạt về tỷ giá và ổn định lạm phát. Hướng đi này đã hỗ trợ cho dòng chảy FDI liên tục mạnh mẽ, và giúp duy trì tăng trưởng. GDP thực của Việt Nam đã tăng 6,2% vào năm 2016, còn mức trung bình 5 năm là 5,9%, cao hơn đáng kể so với mức trung bình 3,4% của các nước được xếp hạng BB.
Tăng trưởng vẫn được hỗ trợ bởi khu vực sản xuất xuất khẩu và đà mở rộng ngành dịch vụ, mặc dù ngành khai khoáng và dầu khí đang suy yếu. Fitch kì vọng tăng trưởng GDP thực sẽ tăng dần, đạt 6,3% trong năm 2017 và 6,4% trong 2018, nhờ dòng vốn FDI tiếp tục đổ vào lĩnh vực sản xuất, và chi tiêu tiêu dùng tăng mạnh mẽ.
Tiếp theo, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tiếp tục được cải thiện, tăng lên 37 tỷ USD vào cuối năm 2016, từ mức 28,6 tỷ USD hồi cuối năm 2015. Sự cải thiện này đến từ cơ chế tỷ giá hối đoái mới (đặt ra tỷ giá trung tâm với biên dao động 3% mỗi ngày) vào đầu năm 2016, cùng với thặng dư tài khoản vãng lai mạnh và dòng vốn FDI tiếp tục tăng. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá mới có thể bị thử thách khi đồng USD mạnh lên, dẫn đến sự suy yếu của đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi (vốn phụ thuộc vào dòng vốn nước ngoài).
Việc Fitch xếp hạng tín dụng của Việt Nam là BB- cũng phản ánh các điều kiện sau:
Nợ công của Việt Nam hiện cao hơn mức trung bình của các nước xếp hạng BB và tiếp tục tăng. Theo ước tính sơ bộ của chính phủ, tỷ lệ nợ công trên GDP đã tăng lên 53,4% vào cuối năm 2016, so với 50,1% vào cuối năm 2015. Nếu tính cả các khoản nợ được chính phủ bảo đảm công khai, thì tỷ lệ nợ công đã lên đến 63,7% vào cuối năm 2016, gần chạm mức trần chính thức là 65%. Chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định cam kết duy trì mức trần, thông qua các biện pháp tài chính và hạn chế các đợt phát hành có bảo đảm. Fitch hy vọng các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ tránh việc vượt trần, bằng cách sử dụng kết hợp các biện pháp trên. Số tiền thu được từ chương trình cổ phần hóa 2016-2020 cũng có thể giúp giảm nợ trong giai đoạn được dự báo.
Fitch ước tính thâm hụt ngân sách năm 2016 giảm xuống còn 5,7% GDP (được điều chỉnh phù hợp hơn với các tiêu chí thống kê tài chính của Chính phủ), từ mức 6,2% vào cuối năm 2015. Các khoản thu ngân sách được đánh giá là tốt hơn dự kiến. Chính phủ Việt Nam đã tăng cường cam kết giảm thâm hụt ngân sách và giảm nợ theo kế hoạch ngân sách 2016-2020, và Fitch kì vọng thâm hụt ngân sách sẽ ở mức gần 5,7% GDP trong giai đoạn 2017-2018, nếu không có cải cách nào đáng kể về mặt nguồn thu.
Thứ hạng của Việt Nam trong một loạt các chỉ số quản trị đã được cải thiện trong vài năm qua, bao gồm cả sáu chỉ số quản trị quốc tế của Ngân hàng Thế giới (WB) từ 2014 đến 2015. Tuy nhiên, xếp hạng của Việt Nam về chỉ số quản trị tổng hợp vẫn chỉ tốt hơn 39% quốc gia được xếp hạng, dưới mức trung bình 50% của các nước xếp hạng BB. Về Chỉ số điều kiện kinh doanh thuận lợi (Ease of Doing Business), Việt Nam đang ở gần với mức trung bình của các nước xếp hạng BB.
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 2.172 USD vào cuối năm 2016, và Chỉ số Phát triển Con người (HDI) chỉ hơn 37% số quốc gia được xếp hạng. Trong khi đó, mức trung bình của các nước xếp hạng BB là thu nhập đầu người đạt 5.058 USD, còn HDI cao hơn 58% số quốc gia.
Tài khoản vãng lai của Việt Nam vẫn thặng dư, đạt mức trung bình khoảng 4% GDP trong giai đoạn 5 năm qua. Mức dự trữ của Việt Nam nhằm đáp ứng các khoản thanh toán bên ngoài hiện nay vẫn còn thấp, ở mức đủ chi 2,3 tháng so với mức trung bình 4,2 tháng của các nước xếp hạng ‘BB’. Do phần lớn các khoản vay nước ngoài là được ưu đãi, tình hình thanh toán nợ nước ngoài cũng được cải thiện phần nào.
Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ nước ngoài so với các nguồn thu từ bên ngoài hiện tại là 4,9% vào cuối năm 2016, so với mức trung bình của các nước xếp hạng BB là 12,9%. Tuy nhiên, lợi thế này có thể bắt đầu giảm trong năm 2017 khi Việt Nam dự kiến ra khỏi nhóm nước cần được ưu tiên của WB, dẫn đến việc phải trả lãi vay cao hơn. Việt Nam hiện đang tăng cường vay nợ từ các nguồn trong nước để chuẩn bị cho việc bị mất dần ưu đãi khi vay nước ngoài.
Theo Fitch, mặc dù triển vọng ngành ngân hàng Việt Nam vẫn ở mức “Ổn định”, nhưng đang còn một số thách thức. Fitch tin rằng số nợ xấu hiện nay (NPL) có thể sẽ mất nhiều thời gian để giải quyết do những trở ngại pháp lý, và tỷ lệ nợ xấu 2,5% vào cuối năm 2016 chưa phản ánh đúng thực tế. Ngoài ra, các điểm yếu mang tính hệ thống và cấu trúc vẫn còn tồn tại, điển hình là vốn đệm mỏng và lợi nhuận thấp.
Fitch tin rằng việc ngành ngân hàng cần được tái cấu trúc vốn vẫn là một rủi ro cho Việt Nam. Hơn nữa, trong khi tình hình kinh tế đang cải thiện có thể giúp giảm nợ xấu, thì tăng trưởng tín dụng vẫn khá nóng và liên tục tạo ra rủi ro cho sự bình ổn tài chính trong trung hạn. Tăng trưởng tín dụng tổng thể vào cuối năm 2016 là khoảng 18%, nằm trong mục tiêu cho phép (18-20%), và sang năm nay thì mục tiêu tăng trưởng tín dụng cho 2017 đã bị giới hạn ở mức 18%.
Quỳnh Như